
Ảnh minh họa
Đó là mục tiêu tổng quát nằm trong Kế hoạch số 24/KH-UBND ngày 07/02/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc triển khai thực hiện Đề án “Phát triển các ngành nghề truyền thống gắn với du lịch tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”. Mục đích của kế hoạch nhằm tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của Quyết định số 1490/QĐ-UBND ngày 20/6/2022. Xác định các nội dung yêu cầu của đề án, thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm để tập trung lãnh đạo thực hiện trong thời gian tới thuộc chức năng, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, đơn vị có liên quan để phân công triển khai thực hiện.
Về mục tiêu cụ thể: Xây dựng và hoàn thiện các sản phẩm du lịch làng nghề, góp phần phát triển du lịch tỉnh Kiên Giang nói chung, đồng thời đóng góp cho việc bảo tồn nghề truyền thống và nâng cao đời sống người dân tại các làng nghề. Đánh giá đúng tiềm năng du lịch làng nghề và các sản phẩm nghề truyền thống. Xây dựng các tiêu chí lựa chọn làng nghề, sản phẩm nghề để khai thác phát triển du lịch. Phát triển du lịch làng nghề theo định hướng phát triển bền vững, có quan tâm đầy đủ và hợp lý các yếu tố phát triển kinh tế, bảo tồn nghề và hạn chế các tác động đến môi trường. Phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể, doanh nghiệp, người dân sống tại các làng nghề và chuyên gia tư vấn, đảm bảo sự tham gia và quyền lợi của các bên có liên quan. Đáp ứng nhu cầu du lịch và xu hướng du lịch mới.
Phấn đấu đến năm 2025, toàn tỉnh có 08 ngành nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống được đưa vào khai thác du lịch, bao gồm: Nghề sản xuất nước mắm (Phú Quốc, Kiên Hải); nghề nuôi cấy trai ngọc (Phú Quốc); nghề sản xuất rượu sim (Phú Quốc); nghề truyền thống đan cỏ bàng (Giang Thành); nghề trồng tiêu (Phú Quốc); nghề làm khô (Kiên Hải, Phú Quốc, Hà Tiên); nghề đan lục bình (Gò Quao) và nghề nuôi cá bè, làng chài (Kiên Hải, Phú Quốc). Định hướng đến năm 2030, toàn tỉnh có 22 ngành nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống được đưa vào khai thác du lịch.
Kế hoạch đề ra 08 nhóm giải pháp thực hiện, gồm: Phát triển du lịch gắn với bảo tồn làng nghề, nghề truyền thống và nghề nông thôn có tiềm năng du lịch cao trên quan điểm xem làng nghề/nghề truyền thống là tài nguyên du lịch để xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch làng nghề. Đào tạo và củng cố đội ngũ nhân lực phục vụ du lịch làng nghề/nghề truyền thống; hỗ trợ các nghệ nhân gắn bó với nghề và đẩy mạnh hoạt động truyền dạy nghề; liên kết với các cơ sở đào tạo của tỉnh để quảng bá, chiêu sinh, mời các nghệ nhân làng nghề/nghề truyền thống đến giảng dạy, hướng dẫn; bồi dưỡng ngoại ngữ, đào tạo nghiệp vụ du lịch, hướng dẫn người dân tại làng nghề/nghề truyền thống về tổ chức, kinh doanh du lịch, văn hóa du lịch, du lịch cộng đồng và trở thành hướng dẫn viên tại điểm. Hoàn thiện, cải tiến chất lượng các điểm du lịch làng nghề/nghề truyền thống đã có hoạt động du lịch trước đây để quảng bá cho du lịch làng nghề của tỉnh, đồng thời làm cơ sở cho việc đúc kết kinh nghiệm, xây dựng các chính sách, quy định, hướng dẫn cụ thể cho du lịch làng nghề.
Xây dựng các chuỗi giá trị sản phẩm du lịch tham quan làng nghề, nhằm tăng hiệu quả của sản xuất nghề truyền thống và hoạt động du lịch. Xây dựng thương hiệu chung cho các sản phẩm nghề truyền thống, thiết kế thành các mặt hàng lưu niệm mang dấu ấn của địa phương nhưng thuận tiện hơn cho du khách trong quá trình vận chuyển. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quảng bá và phát triển các sản phẩm du lịch mới từ các làng nghề/nghề truyền thống. Bảo vệ môi trường du lịch, hạn chế tối đa các tác động đến môi trường trong quá trình sản xuất. Ngoài việc tạo một không gian thích hợp cho việc tổ chức hoạt động tham quan, trải nghiệm, việc bảo vệ môi trường du lịch còn góp phần đưa làng nghề phát triển theo định hướng bền vững: bảo tồn văn hóa địa phương, góp phần nâng cao đời sống người dân và phát triển kinh tế, đồng thời hạn chế tối đa tác động của hoạt động sản xuất cũng như hoạt động du lịch đến môi trường. Liên kết phát triển du lịch, kết nối tour, tuyến đến các làng nghề, điểm sản xuất nghề truyền thống chưa có hoặc còn ít khách du lịch đến tham quan. Xác định thị trường khách mục tiêu, đánh giá các xu hướng thay đổi trong nhu cầu của du khách. Xác định địa bàn trọng điểm cho đầu tư phát triển du lịch làng nghề.
Tổng nguồn vốn đầu tư dự kiến hơn 38 tỷ đồng, trong đó có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn đối ứng xã hội hóa và phân bổ theo nội dung và theo từng năm.
UBND tỉnh cũng phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng sở, ban ngành, Hiệp hội Du lịch, UBND các huyện, thành phố tổ chức thực hiện. Trong đó giao Sở Văn hóa và Thể thao sưu tầm, tập hợp các tư liệu về làng nghề và nghề truyền thống của tỉnh, biên tập thành các tài liệu đầy đủ, chính xác về làng nghề, có thể sử dụng trong công tác thuyết minh, giới thiệu cho du khách. Chủ trì công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể gắn với ngành nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh thông qua các biện pháp như thống kê, sưu tầm, quảng bá, truyền dạy, có hình thức phù hợp để tôn vinh các nghệ nhân.